Đến với buổi sinh hoạt chuyên đề: "Mỗi tuần một câu chuyện đẹp, một cuốn sách hay, một tấm gương sáng”. Em sinh giới thiệu về tấm gương tuổi trẻ Việt Nam chị Nguyễn Thị Minh Khai.
Nguyễn Thị Minh Khai sinh ngày 30/9/1910, tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ra trong một gia đình công chức nhỏ. Lúc chín tuổi, chị Nguyễn Thị Minh Khai đã được đi học chữ quốc ngữ tại thành phố Vinh. Học hết lớp nhì, chị được chuyển sang học lớp nhất ở trường Tiểu học Cao Xuân Dục. Lúc bấy giờ, tiếng bom của Phạm Hồng Thái mưu giết tên toàn quyền Merlin đang kích động mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, nhất là thanh niên, học sinh, trí thức ở Nghệ Tĩnh. Được các thầy giáo hướng dẫn, chị Minh Khai tham gia các phong trào yêu nước với tất cả nhiệt tình của tuổi thanh niên. Chị vận động nữ sinh góp tiền mua hoa, mua vải may băng tang đi dự lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Châu Trinh và ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu, nhà cách mạng nổi tiếng thời bấy giờ. Tốt nghiệp tiểu học, chị Minh Khai ở nhà giúp mẹ bán hàng, ghi chép sổ sách và chăm lo công việc gia đình, vừa đảm đang việc nhà, vừa tham gia các hoạt động ở thành phố.
Mùa hè năm 1927, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là người đầu tiên được kết nạp vào Hội Hưng Nam (sau đổi tên thành Tân Việt Cách mạng Đảng) và được bầu vào Ban Chấp hành Hội Hưng Nam, phụ trách công tác vận động phụ nữ.
Năm 1929, đồng chí thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng bí mật.
Mùa hè năm 1930, đồng chí được lệnh ra hoạt động ở Hải Phòng rồi từ đó được Đảng cử sang Hương Cảng làm việc. Tại đây, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp huấn luyện về lý luận cách mạng. Đồng chí làm liên lạc giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với các tổ chức cách mạng Việt Nam, ở giữa mạng lưới dày đặc cảnh sát và mật thám của thực dân Anh. Trong thời gian ở Hương Cảng, đồng chí lấy bí danh là Cô Duy, Trần Thái Lan, Lý Huệ Phương…
Năm 1931, đồng chí bị thực dân Anh cấu kết với thực dân Pháp ở Quảng Châu bắt giam. Mặc dù bị tra tấn, đánh đập đồng chí không hề bị khuất phục. Nhờ sự can thiệp của Quốc tế Đỏ, năm 1933 đồng chí được trả tự do. Ra tù, đồng chí đổi tên là Thị Vai, tìm đến Thượng Hải bắt liên lạc với đồng chí Lê Hồng Phong và hoạt động ở ngoài nước.
Đầu năm 1935, đồng chí cùng chồng là đồng chí Lê Hồng Phong được cử đi dự Đại hội lần thứ bảy Quốc tế Cộng sản tại Moscow. Lần đầu tiên, với tên là Phan Lan, đồng chí đã đọc tham luận dõng dạc lên án chính sách xâm lược của thực dân Pháp, tố cáo tội ác dã man của chúng, nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng của phụ nữ Đông Dương và phụ nữ Việt Nam.
Đầu năm 1937 đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai về đến Sài Gòn và được Trung ương Đảng phân công đến làm việc tại cơ quan Xứ ủy Nam Kỳ. Thời gian này, chị viết nhiều bài đăng trên báo Dân chúng, kêu gọi chị em phụ nữ Việt Nam noi gương phụ nữ Liên Xô hăng hái hơn nữa trong các phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột. Lời kêu gọi ấy đã cổ vũ chị em phụ nữ hưởng ứng tích cực các cuộc đấu tranh do Đảng ta lãnh đạo.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Đồng chí được Xứ ủy Nam Kỳ chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Trong điều kiện khó khăn, đồng chí luôn bám sát cơ sở hoạt động và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh lớn, đồng chí đã bí mật vào xưởng đóng tàu Ba Son.
Thời gian này đồng chí Lê Hồng Phong, người chồng, người đồng chí của đồng chí Minh Khai cũng đã về Sài Gòn hoạt động và đến ngày 29/9/1939 thì đồng chí Lê Hồng Phong bị giặc Pháp bắt giam.
Mùa xuân năm 1940, chỉ vài ngày sau khi sinh đứa con đầu lòng và duy nhất, đồng chí Minh Khai đã phải xa con, tiếp tục công tác cách mạng. Lúc này, Nhật nhảy vào Đông Dương, một phong trào đấu tranh dâng lên sôi sục ở Sài Gòn - Gia Định và các vùng nông thôn Nam Bộ. Xứ ủy Nam Kỳ họp hội nghị nhận định tình hình và đề ra chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền. Sau hội nghị, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị sa vào tay giặc Pháp, giam tại bót Catinat. Chúng đưa đồng chí Lê Hồng Phong về nhận mặt chị để hòng có chứng cứ kết án xử tử hình cả hai người về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Nhưng chúng đã thất bại vì hai chiến sĩ dũng cảm của nhân dân ta không nhận một điều gì kể cả mối quan hệ vợ chồng với nhau. Tra khảo không được, giặc Pháp đưa đồng chí vào giam ở Khám Lớn Sài Gòn.
Sau 8 tháng giam cầm, tra tấn và dụ dỗ, ngày 21/1/1941, thực dân Pháp đưa đồng chí Minh Khai ra tòa án và kết án 5 năm tù khổ sai, 20 năm biệt xứ và nâng dần mức án cho đến khi xử tử hình đồng chí Minh Khai cùng các đồng chí khác bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ với cái tội mà chúng bịa ra là “xui giục dân chúng làm rối loạn quốc gia” và “mưu toan lật đổ chính phủ”.
Sáng ngày 28/8/1941, biết kẻ thù sẽ đem mình và một số đồng chí đi xử bắn, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai nói to, tố cáo tội ác của kẻ thù và kêu gọi bạn tù nổi dậy đấu tranh. Bọn địch hung bạo đâm lưỡi lê vào ngực đồng chí. Các đồng chí chung quanh thét lên phản đối, tiếng hô căm phẫn trút lên đầu quân thù. Chúng sợ hãi vội đưa đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng các đồng chí ra trường bắn. Trước họng súng của địch, các đồng chí đã giật tung giải bịt mắt, ngẩng cao đầu hô lớn:
Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai ngã xuống nhưng khí phách anh hùng của người nữ Đảng viên cộng sản mãi mãi sáng ngời trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Ghi nhớ người nữ chiến sĩ cách mạng kiên trung, nhiều địa phương trong cả nước đã có những con đường mang tên Nguyễn Thị Minh Khai. Tại Thành phố Hồ Chí Minh con đường Nguyễn Thị Minh Khai đặt tại trung tâm Thành phố và ngôi trường Nguyễn Thị Minh Khai giàu truyền thống luôn luôn là niềm tự hào cho nhiều thế hệ giáo viên, học sinh.
Câu chuyện của em đến đây đã hết, em xin chân thành cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe!
Gia Vy 7/9