Nguyên Hồng (1918-1982) sinh ra trong một gia đình công giáo ở Phố Hàng Cau, TP Nam Định, mồ côi cha từ năm lên 12 tuổi, gia đình sớm sa sút.
Mẹ buộc phải đi làm ăn xa, nhà văn lớn lên trong sự hắt hủi và thiếu thốn tình thương của mẹ. 16 tuổi, Nguyên Hồng cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống ở các xóm chợ nghèo… gắn bó với những con người nghèo khổ nhất của thành phố này.
Có lẽ chính vì vậy mà tác phẩm của Nguyên Hồng thường viết về những người ở đáy cùng xã hội. Ông thương những người nghèo khổ và có hoàn cảnh éo le.
Năm 24 tuổi, nhà văn thành hôn với bà Vũ Thị Mùi (SN 1919 - 1988).
Khác với các văn nghệ sĩ dành phần nhiều thời gian sáng tác, việc cơm áo gạo tiền để vợ lo toan thì Nguyên Hồng lại đỡ đần vợ rất nhiều trong cuộc sống.
Bà Mùi là người yêu văn thơ, biết tiếng Pháp. Cho tới khi tuổi đã cao, hai ông bà vẫn hay đọc thơ cho nhau nghe.
Nghiêm khắc, kiệm lời nhưng tràn đầy tình yêu là cách nhà văn dùng để dạy 7 người con (3 con trai và 4 con gái).
‘Một trong những đam mê từ nhỏ của bố tôi là đọc sách nên ông muốn các con của mình cũng như vậy. Gia đình luôn túng thiếu nhưng trong nhà vẫn có 2 tủ sách, sách kinh điển được dịch bằng tiếng Việt dành cho các con, sách tiếng Pháp cho ông.
Mỗi lần xuống Hà Nội giao bản thảo hay lấy tiền nhuận sách, ông đều mua sách về cho các con đọc’, chị Nhã Nam (con gái nhà văn) nói.
Các con ông vẫn nhớ như in hình ảnh người cha khắc khổ đạp xe từ Cầu Đen (Bắc Giang) xuống Hà Nội, phía sau là chiếc cặp to đựng bản thảo và ít đồ ăn (cơm, lạc rang) nhưng khi về trong hành lý của ông ngoài các tài liệu và các nhu yếu phẩm của gia đình bao giờ cũng có vài cuốn sách cho các con.
Ông yêu cầu các con cầm quyển sách để đọc không được gập lại bởi theo ông ‘làm thế như bẻ quặt cánh của con chim bồ câu’. Đọc xong ông buộc con xếp ngay ngắn, đúng chiều trên giá sách để lúc cần có thể tìm thấy ngay.
Ông nghiêm khắc trong giáo dục nhưng luôn khen ngợi, động viên khi các con học tốt. ‘Mỗi lần nhận nhuận bút, bố liền cho chúng tôi ra thị trấn ăn phở. Hồi đó, được ăn phở là điều vô cùng vui sướng.
Một lần, ông đưa hai anh đến một hàng rất ngon nhưng ông chỉ gọi 2 bát phở cho hai con, còn ông thì ngồi nhìn các con ăn’, anh Nguyễn Vũ Sơn, con trai nhà văn kể.
Cũng theo các con ông, bố Nguyên Hồng rất thích đi họp phụ huynh để biết tình hình học tập của các con. Các bạn đến nhà, ông đều khoe: ‘Các con tôi đứa nào cũng đứng nhất lớp!’…
Tác phẩm đầu tay và là tác phẩm gây tiếng vang của ông là ‘Bỉ vỏ’ được viết khi tác giả mới 16 tuổi (Tác phẩm được giải thưởng danh giá thời đó là Giải thưởng Tự lực văn đoàn).
Trong bài ‘Tôi viết Bỉ vỏ’ ông đã nói: ‘Tôi chết đi, mới 16 tuổi, sẽ làm cho mẹ tôi đau đớn biết chừng nào! Những lúc lo sợ bối rối đau đớn quá, trong tâm trí người ta hay nẩy ra những ước muốn khác thường'.
'Tôi, tôi muốn sẽ có một cái gì để an ủi mãi mãi mẹ tôi và để tỏ lòng tôi mến tiếc và thương nhớ những người và vật đã làm tôi vui thích đến say mê…’. Bỉ vỏ đã ra đời như thế.
‘Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà cứ chập tối là vang lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; Bỉ vỏ đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dào dạt trong những bụi mưa thấm thía.
Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, con xin dâng 'Bỉ vỏ' cho mẹ với cả tấm lòng kính mến trong sạch của con và xin tặng nó cho các bạn với tất cả cảm tình đằm thắm, tươi sáng của tôi’, Nguyên Hồng từng viết.
Ông đã lao động nghệ thuật say mê, hết mình và bền bỉ như một người thợ cho đến giây phút cuối của cuộc đời.
Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1) năm 1996.
Theo: Ngọc Trang - Nguyễn Thảo
Nguồn: https://vietnamnet.vn/chuyen-chua-ke-ve-cuoc-doi-nha-van-nguyen-hong-542916.html